Tôi vốn là một nhà hóa học, chuyên về môi trường, vốn liếng lịch sử chỉ ở trình độ trung học thời Việt Nam Cộng Hòa. Do đó, nói về Quang Trung, tôi chỉ muốn nói lên tinh thần Quang Trung qua cái nhìn của một học sinh trung học, để từ đó thử tìm một đối chiếu với tình trạng tuổi trẻ VN ở hải ngoại cũng như ở trong nước.
Từ xa xưa, tiền nhân của chúng ta phải bao phen chống giặc phương bắc. Sau bao lần thành công trong việc đuổi giặc ra khỏi bờ cõi, quan vua VN đều ra sức cầu hòa và tuân phục triều cống Bắc phương. Thái độ đó được nhiều sử gia cho là khôn ngoan và cung cách ứng xử của tiền nhân được xem như là kim chỉ nam trong thuật giữ nước khi nước còn yếu so với Bắc phương.
Lãng Nhân
Hàn Lâm NGUYỄN PHÚ THỨ
Khoảng 1850, ông Nguyễn Đình Chiểu làm thày lang ở Tân Thuận đông, tỉnh Gia Định, kết duyên với bà Lê Thị Điều, người Cần Giuộc, Chợ Lớn. Được ba trai, ba gái, trong số này có bà Nguyễn Thị Khuê là con thứ tư, sinh ngày 24 tháng 12 năm quý hợi (1863). Vóc người mảnh mai, tư dung thanh nhã, lại nhờ sự chăm sóc dạy dỗ của thân phụ, nên sớm trở nên một trang tài sắc lẫy lừng. Song gặp lúc thời thế đảo điên, lòng người dáo dở, kén cá chọn canh mãi không tìm được nơi xứng ý, nên đến năm cha tạ thế, thiếu nữ đã 25 tuổi mà vãn giữ phòng không. Gia đình hồi ở Ba tri, trong vùng có ngự sử Lê Đình Trọng về hưu trí, mở trường dạy học. Vài ba thư sinh gấm ghé cô nữ sinh, nhất là Giảng và Xuyên. Một hôm ông đồ vắng nhà, hai anh đến chơi bàn luận văn chương.
Vào khoảng cuối thế kỷ trước (những năm sau 1890) ở vùng Nghệ Tĩnh, những ngày phiên chợ Tràng trên bờ sông Lam, có một thiếu phụ cùng một bé trai năm sáu tuồi, ngồi bán than. Mấy túi than này do cô chở đến trên con thuyền nhỏ tự tay chèo lái, không rõ xuất phát từ ngàn Hống hay ngàn Trươi là hai cánh rừng sâu rất hiểm trở trên dặng núi Hông.
Mạc Vân
Thưa quý bạn, Bạc Liêu là một tỉnh nhỏ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng có nhiều chuyện nổi tiếng, như về lúa gạo, về muối, về nhãn, về… Công tử Bạc Liêu (1900-1973) trong thời Pháp thuộc, về vụ án Đồng Nọc Nạn của những năm 1928-1930, và về ngôi nhà thờ họ Tắc Sậy với sự linh ứng của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, mà gần đây cả trong nước lẫn ngoài nước ai cũng biết.