
Ở Việt Nam người ta hay nói đến bằng A, bằng B, bằng C để định mức cho trình độ ngoại ngữ tiếng Anh được học ở các “Trung Tâm Đào Tạo” (TTĐT) ngắn hạn, hoặc bằng cử nhân Anh Văn cho bậc đại học chính quy dài hạn 4 năm.

Ở Việt Nam người ta hay nói đến bằng A, bằng B, bằng C để định mức cho trình độ ngoại ngữ tiếng Anh được học ở các “Trung Tâm Đào Tạo” (TTĐT) ngắn hạn, hoặc bằng cử nhân Anh Văn cho bậc đại học chính quy dài hạn 4 năm.
Bạn đã bao giờ gặp tình huống này chưa: Để lảng tránh giải thích cho bạn về một vấn đề nào đó, về một hiện tượng tiêu cực, về một sự khuất tất hay một bất công nào đó, người ta trả lời bạn: “Cái nước mình nó thế, đừng có hỏi!”?
Đã bao giờ bạn đưa phong bì cho giáo viên, và thay vì dằn vặt xấu hổ, bạn tự nhủ : “Cái nước mình nó thế”, rồi cảm thấy thanh thản ?
Tôi giả định rằng bạn đủ nhận thức để hiểu cái nước mình nó thế là nó như thế nào, nên không luận giải về điều đó ở đây. Tôi chỉ muốn đề cập tới, một cách chưa đầy đủ, thái độ nào có thể có đằng sau câu nói đó. “Cái nước mình nó thế” là một mệnh đề tiêu biểu cho sự bất lực, cho sự đầu hàng vô điều kiện, sự nô lệ cho hoàn cảnh và nô lệ cho chính mình. Mệnh đề này thể hiện sự kìm kẹp, sự trói buộc từ bên trong của mỗi cá nhân, hậu quả của sự trói buộc dài hạn từ bên ngoài. Và nó cũng thể hiện sự lảng tránh trách nhiệm. Để tránh hành động, để chấp nhận cái xấu, cái ác, cái tồi tệ, nhưng đồng thời để tránh phải chịu trách nhiệm về cái xấu, cái tồi tệ và cái ác, người ta nói với bạn: “Cái nước mình nó thế”.
Đọc tiếp ““Cái Nước mình nó thế !” Sinh viên – Bạn nghĩ gì ?”
Huy Phương
“Bọn chúng ta hèn như bầy thỏ đế
Khổ đau chia, khi sung sướng một mình
Lúc lửa đỏ bèn cao bay xa chạy
Còn nhớ gì nghĩa huynh đệ chi binh!” (HP)
Trong văn chương, ngoài những bài biên khảo, bình luận, xã luận khá dài về một vấn đề, một đề tài nào đó; và ngoài các tiểu thuyết, truyện dài với vô số sự kiện, nhân vật, hoàn cảnh,… ; ta cũng thường bắt gặp nhiều bài ngắn, khá ngắn, viết rất đơn sơ nhưng nội dung lại phong phú, ý tình tác giả được phơi bày khá sâu sắc mà với cái nhìn thoáng qua, ta không bắt được cái ‘cốt tủy’ tiềm ẩn trong đó, đôi khi ta còn nghĩ rằng đấy là những bài viết tầm phào, viết cho vui, viết giải trí cho qua thời gian. Tập ‘Thà như giòng nước chảy’, theo người viết thuộc loại nầy. Nhưng Trúc Giang không viết cho vui, không viết lấy có, không viết để ‘được là nhà văn’, để mong được văn đàn đón nhận. Trúc Giang đã viết với tất cả lắng đọng của tâm tình qua dòng đời ‘oan nghiệt’ từ lúc còn ở quê hương đến ngày qua xứ Đức, mượn qua Internet để trang trải ý tình mình. Thế giới Internet là thế giới ảo, những nickname trên Internet cũng là những người ‘ảo’, ảo trên màn hình nhưng không ảo nơi tâm tư tác giả. Trúc Giang mượn những cái ‘ảo’ đó để sống thật với mình, để trang trải mọi ưu tư, phiền muộn, mọi rung động của tâm tư, thần trí về mình, về người, về đời, về đất nước, quê hương. ‘Ảo’ mà trở thành ‘thật’ như cái tên của một người gắn liền vói cấu trúc xác thân người đó. Điều nầy, Trúc Giang đã nói rõ nơi bài ‘An phận hay dũng cảm đối diện cuộc sống’ viết cho người bạn ảo Bến Xưa trên Net.
Bài văn của một nữ học sinh trung học phổ thông với đề bài phân tích truyện Thánh Gióng vừa được phát tán trên mạng, được xem như “bài văn lạ” mới, gây xôn xao cộng đồng. Nguyên văn bài viết như sau (xin đăng nguyên văn, kể cả một số từ tạm gọi là “lỗi từ vựng” của thế hệ 9X):
Xong xuôi thì thay vì ở lại để nhận huân chương Anh hùng, ông lại vội vã bay ngay lên trời, để lại một loạt fan và người hâm mộ ngơ ngác.
“Truyền thuyết kể lại thật ấn tượng khi Thánh Gióng ba tuổi chưa biết nói cười nhưng khi giặc Ân đến thì thoắt cái vươn vai để trở thành người lớn trong phút chốc, ngay sau đó thì đã dùng gậy sắt, cưỡi ngựa sắt uýnh tan giặc. Wow, thậm chí ông còn dùng cả bụi tre làm vũ khí! Xong xuôi thì thay vì ở lại để nhận huân chương Anh hùng, ông lại vội vã bay ngay lên trời, để lại một loạt fan và người hâm mộ ngơ ngác. Chắc là ông tuy thành người lớn nhưng tuổi vẫn trẻ con nên dễ ngượng trước đám đông, hoặc có thể ông ấy khiêm tốn và không mắc bệnh thành tích như người lớn bây giờ! Em hâm mộ ông, à… anh ấy lắm (mà sao trẻ thế họ lại cứ bắt gọi là ông nhỉ?)! Nếu anh ấy mà không bay mất chắc ối người hâm mộ sẽ chết mê chết mệt. Ôi, anh Gióng thật manly, thật cool – thần tượng của em!
Những chùm lá trên cây đã ngả sang màu vàng, từng chòm mây trên bầu trời lãng đãng trôi, những khóm hoa Hồng trước sân đang nở rộ, tháng Bảy đang đến. Lại một mùa Thu nữa đang đến. Mùa Thu luôn gợi nơi lòng người những kỷ niệm, ký ức sâu xa, lắng đọng. Mùa Thu khiến lòng những người con hiếu thảo bồi hồi xúc cảm khi nghĩ tưởng đến ân nghĩa thiêng liêng nhất trong đời : ân nghĩa sanh thành.
(ANTĐ) – Cứ ngỡ, gánh hàng hoa chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết của Khái Hưng – Nhất Linh cách đây mấy chục năm trời, hay trong phim “Gánh hàng hoa” dù được làm bằng chất liệu đen trắng mà vẫn thấy rực rỡ sắc màu, hay chỉ có một gánh hàng hoa trong tấm postcard nhuộm màu thời gian trong cuộc triển lãm “Để hiểu hơn về một Hà Nội xưa”.
Vậy mà, gánh hàng hoa vẫn trĩu trịt, rung rinh thoăn thoắt theo những bước chân cô hàng hoa rong phố mỗi mùa. Gánh hàng hoa giữa Hà Nội khiến người ta chợt ngẩn người ra mà nghĩ, suốt mấy chục năm qua, cô hàng cứ gánh gánh hoa mà đi xuyên thời gian, không gian cho đến tận bây giờ.
Đỗ Bình
Võ Thị Trúc Giang Lúa 9 là bút hiệu ghép của Võ Thị Tường Vi, một thiếu nữ đầy tính đam mê lãng mạn, yêu văn chương từ thuở học trò, sau thành một cô giáo đứng trên bục giảng hồn vẫn mộng nơ. Sau biến cố năm 75, giã từ cây cầu tre, phố thị, Tường Vi làm một cánh chim lưu lạc xứ người mang theo cả màu trời quê hương với bao hoài niệm. Có lẽ những hoài niện đong đầy tình yêu đã vỗ về nỗi cô đơn kết tạo thành những chất liệu của tâm hồn nên đã thôi thúc Tường Vi phải viết ra những điều trăn trở ẩn dấu trong lòng. Sự chân thành và dòng cảm xúc dạt dào đã mở đường cho Võ Thị Tường Vi thành văn sĩ, có lẽ thế tác giả đã thực hiện tập truyện đầu tay, mang tính tùy bút có tựa là: Tình Yêu Nuôi Tôi Lớn. Sự hoài niệm tình quê hương đã thể hiện qua bút hiệu: Trúc Giang tên một giòng sông quê hương tác giả. Lúa 9 được ghép vào từ khi Tường Vi dọn qua Pháp sống tại làng nhỏ tên là Neufgrange. Neufgrange là 9-vựa-lúa.
Tôi rất ngại, không biết phải xưng hô thế nào với các bạn, trước đây tôi và các bạn đứng dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, nay có một số đã chấp nhận đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ mà trong cuộc chiến bảo vệ tự do, chúng ta không bao giờ chấp nhận và truy lùng trong những cuộc hành quân, cũng như hạ xuống tại những vùng nông thôn kẻo lánh để thay vào bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Đau lòng là ngày nay, các anh không còn thích chào cờ nầy khi về Việt Nam, phải đứng trước lá cờ đỏ sao vàng và chân dung Hồ chí Minh, thậm chí khi trở sang nước tạm dung, các anh tỏ ra khiếp sợ một cách hèn nhát, ít khi dám tham dự các sinh hoạt có lá cờ vàng, nhất là không dám chụp những tấm ảnh có những thứ mà chế độ cộng sản thù ghét, đã sống tại các nước dân chủ, nhưng các anh vẫn còn sợ hải đảng cộng sản, thì làm sao giải trừ được chế độ phi nhân, mang lại tự do cho đồng bào Việt Nam.
Đọc tiếp “Lời người Lính Việt Nam cộng hòa gởi các chiến hữu đổi màu”
Trần Mộng Lâm
Nhân sắp đến ngày ký Hiệp Định Genève 20/07
Trên giấy tờ , tôi sinh ra tại tỉnh Nam Định .
Trên thực tế , tôi nói tiếng Việt giọng Bắc , không uốn lưỡi khi phát âm những tiếng bắt đầu bằng « tr » . Những chữ bắt đầu bằng « V » , tôi nói rất rõ , nhưng may mắn không lầm chữ « L » với chữ « N » .
Nhưng tôi không phải người Bắc .
Hiệp Định Genève đưa tôi vào miền Nam rất sớm , ngay khi tôi vừa lên Trung Học .
Tôi lớn lên tại miền Nam , học theo chương trình bộ Giáo Dục Miền Nam , đọc sách miền Nam , học và thành tài tại Miền Nam .
Trong những năm sống tại Miền Nam , tôi nổi trôi theo những thăng trầm của miền Nam . Tôi biết thế nào là Bình Xuyên , thế nào là Đệ nhất Cộng Hoà , ông Diệm , ông Nhu , ông Thục , rồi sau đó , ông Khánh , ông Thiệu , ông Kỳ , ông Trí Quang , ông Tâm Châu , ông Dương Văn Minh …