Đăng trong Nguyễn Công Trứ, Vườn thơ

Ngất ngưởng

Nguyễn Công Trứ

Vũ trụ nội mạc phi phận sự (1)
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lòng,
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, (2)
Gồm thao lược (3) đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc Bình tây cầm cờ đại tướng (4)
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên (5)
Đạc (6) ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dáng từ bi,
Đọc tiếp “Ngất ngưởng”

Đăng trong Nguyễn Công Trứ, Vườn thơ

Chữ nhàn

Nguyễn Công Trứ

Thị tại môn tiền: náo
Nguyệt lai môn hạ: nhàn.
So lao tâm lao lực cũng một đàn,
Người trần thế muốn nhàn sao được ?

Nên phải giữ lấy nhàn làm trước,
Dẩu trời cho có tiếc cũng xin nài.
Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi
Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể.

Đọc tiếp “Chữ nhàn”

Đăng trong Nguyễn Công Trứ, Vườn thơ

Cầm kỳ thi tửu

Nguyễn Công Trứ

Cầm kỳ thi tửu
Ðường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay,
Ðàn năm cung réo rắt tính tình dây,
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó.
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà.
Thú xuất trần, tiên vẩn là ta,
Sánh Hoàng Thạch , Xích Tùng , ờ cũng đáng !
Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng,
Thi hoài lạc hĩ, tửu hoài nồng.
Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung
Đọc tiếp “Cầm kỳ thi tửu”

Đăng trong Nguyễn Công Trứ, Vườn thơ

Than nghèo

Nguyễn Công Trứ

Chửa chán ru mà quấy mãi đây,
Nợ nần dan díu mấy năm nay.
Mang danh tài sắc cho nên nợ,
Quen thói phong lưu hóa phải vay.
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt,
Anh hùng khi gắp cũng khoanh tay.
Còn trời, còn đất, còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này ?

Có lẽ ta đâu mãi thế này
Non sông lẩn thẩn mấy thu chầy.
Ðã từng tắm gội ơn mưa móc,
Cũng phải xênh xang hội gió mây.
Hãy quyết phen này xem thử đã
Song còn tuổi trẻ chịu chi ngay ?
Xưa nay xuất, xử thường hai lối,
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây.

Đọc tiếp “Than nghèo”

Đăng trong Nguyễn Công Trứ, Vườn thơ

Ði thi tự vịnh

Nguyễn Công Trứ

Ði không há lẽ trở về không ?
Cái nợ cầm thư phải trả xong.
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng.
Ðã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng

Đăng trong Nguyễn Công Trứ, Vườn thơ

Phận sự làm trai

Nguyễn Công Trứ

Vũ trụ chức phận nội
Ðấng trượng phu một túi kinh luân.
Thượng vị đức, hạ vị dân,
Sắp hai chữ “quân, thân” mà gánh vác,
Có trung hiếu nên đứng trong trời đất
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây,
Phải hăm hở ra tài kinh tế
Người thế trả nợ đời là thế
Của đồng lần thiên hạ tiêu chung,
Hơn nhau hai chữ anh hùng

Đăng trong Nguyễn Công Trứ, Vườn thơ

Chí làm trai

Nguyễn công Trứ

Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
Chí làm trai Nam, Bắc, Ðông, Tây,
Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể.

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Ðã chắc rằng ai nhục, ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.

Đọc tiếp “Chí làm trai”

Đăng trong Nguyễn Công Trứ, Vườn thơ

Kẻ Sĩ

Nguyễn công Trứ

Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên. (1)
Có giang sơn thì sĩ đã có tên,
Từ Chu Hán, vốn sĩ này là quí.

Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị,
Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường.
Khí hạo nhiên chí đại, chí cương,
So chính khí đã đầy trong trời đất.

Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất, (2)
Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn. (3)
Xe bồ luân (4) dầu chưa gặp Thang, Văn,
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.

Đọc tiếp “Kẻ Sĩ”

Đăng trong Nguyễn Công Trứ, Địa linh nhân kiệt

Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ quê làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Công Trứ sinh cuối năm 1778, kém thi hào Nguyễn Du 12 tuổi, là đồng hương Nghi Xuân, hai làng cách nhau chỉ hơn một cây số. Nổi tiếng thông minh, học giỏi từ ấu thơ, nhưng lận đận mấy lần thi cử, mãi tới năm 1819, ông mới giành được giải nguyên trường Nghệ. Bước hoạn lộ bắt đầu ở tuổi ngoài 40 (1820) với chức Hành tẩu Quốc sử quán nhưng lại gập ghềnh bao chặng gian nan.

Đem thân vào chốn quan trường, 28 năm làm quan, 26 chức vụ khác nhau, lúc làm quan văn, khi thì quan võ. Ba lần Nguyễn tiên sinh được cử đi chấm thi hương (cử nhân), có lần đảm chức Chánh chủ khảo trường thi Hà Nội. Bốn lần được phong làm tướng cầm quân, ra Bắc, vô Nam, oai phong lẫm liệt. Nhưng con người tài hoa và khí phách ấy với nhân cách ngay thẳng, bộc trực, dám làm, dám chịu bị những kẻ gian nịnh trong triều, ngoài nội ganh ghép, gièm pha, vu vạ, chịu nhiều phen điêu đứng. Chúng vu ông buôn lậu, mưu phản triều đình, vượt quyền vua, toàn là trọng tội. Nhiều lần ông bị giáng chức từ ba, bốn cấp, có khi cách tuột, cho đi làm lính thú. Nhiều phen ông bị án oan, có khi phải chịu án “trảm giam hậu” (tội chém, nhưng giam chờ lệnh)!

Đọc tiếp “Nguyễn Công Trứ”