Anh hùng Đông A – Dựng cờ bình Mông – Hồi 41

HỒI THỨ BỐN MƯƠI MỐT

Hận tình chưa trả.

Thành-cát Tư-hãn điều động bốn vương tử, mười binh đoàn, công hãm Yên-kinh. Sau một tháng liền, dùng tù binh, dân chúng lấp hào, bắc thang leo lên công thành. Từng đợt, từng đợt, người người, hàng hàng nối tiếp leo lên, bị quân phòng thủ bắn tên, lăn gỗ đá, ngã lộn xuống chết. Số nô lệ, tù binh bắt được trong những trận đánh trước chết gần hết, mà thủy chung vẫn không vào được thành. Tổng kết thiệt hại, riêng quân Mông-cổ chết hơn vạn; tù binh, nô lệ chết ba mươi vạn dư mà thành vẫn đứng vững như chế diễu Thành-cát Tư-hãn. Ông bực mình, đích thân đốc thúc công thành, thì bị một mũi tên trúng cổ. Độc chất làm sưng lớn lên.
Tiếp tục đọc

Anh hùng Đông A – Dựng cờ bình Mông – Hồi 42

HỒI THỨ BỐN MƯƠI HAI

Dựng cờ Đông-a

Lại hơn tháng sau, một hôm Thủ-Độ đang tiếp sứ giả của năm Khả-hãn quanh Thăng-long thì được tin báo :
_ Có một chiến thuyền từ Thiên-trường tới. Họ xưng là người thân của Khả-hãn, xin yết kiến.
Thủ-Độ truyền lệnh cho vào.
Lát sau, một con thuyền lớn, trên kéo lá cờ, có vẽ hình chim ưng tung cánh. Biết đây là kỳ hiệu của phái Đông-a. Thủ-Độ lên mặt sàn thuyền chờ đợi. Hai thuyền kè mạn vào nhau, cầu ván được bắc giữa hai thuyền. Một phụ nữ cực kỳ xinh đẹp xuất hiện, đó là bà Trần Lý. Cạnh bà là một nhà nho, tiên phong đạo cốt, đó là Phạm Kính-Ân.
Tiếp tục đọc

Anh hùng Đông A – Dựng cờ bình Mông – Hồi 43

HỒI THỨ BỐN MƯƠI BA

Trần gia dĩ nhan sắc đắc thiên hạ.
(Họ Trần nhờ nhan sắc mà được thiên hạ)

Thủ-Độ bơi đến giữa giòng sông, Hầu ngước mắt nhìn lên bờ, bọn võ sĩ Tống đang dàn ra, dường như chuẩn bị tác chiến. Cạnh chúng, một đoàn người lố nhố nam, nữ, già, trẻ lẫn lộn. Dưới ánh sáng ban mai, Hầu nhận ra đó là bọn hậu cung, bọn đại thần theo Đàm Dĩ-Mông. Cách đó không xa, một đội Ngưu-binh ước hơn ba trăm con cũng dàn thành trận thế. Người chỉ huy Ngưu-binh chính là Lê Mịch.
Hầu phóng mắt nhìn sang bờ phía Quốc-oai, một cảnh làm Hầu vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ: Dọc bờ sông, cờ Lĩnh-Nam bay phất phới. Trên con lộ rộng thênh thang, cờ xí rực một góc trời. Bên phải, là một đoàn giáp sĩ hùng tráng. Bên trái là một đội Ngưu-binh. Phía sau một đội âm nhạc đang tấu nhạc chiến thắng.
Tiếp tục đọc

Anh hùng Đông A – Dựng cờ bình Mông – Hồi 44

HỒI THỨ BỐN MƯƠI BỐN

Di chúc Nguyên-phong

Niên hiệu Nguyên-phong nguyên niên đời vua Thái-tông nhà Trần (DL.1251, Tân Hợi), bên Trung-quốc, phương Nam nhằm niên hiệu Thuần-hựu thứ 11 nhà Tống. Phương Bắc nhằm niên hiệu Nguyên Hiến-tông Mông-Kha nguyên niên.

Hôm ấy là ngày 14 tháng 4. Khắp các thôn, các xã trong vùng Ngũ-yên là Yên-phụ, Yên-dưỡng, Yên-sinh, Yên-hưng, Yên-bang thuộc trấn Đông-triều như chìm vào trong không khí ảm đạm, thê lương. Dân chúng ít ra đường. Người người gặp nhau, chỉ liếc mắt nhìn lên, rồi lại cúi đầu lầm lũi đi. Nguyên do: Sáng nay, mõ khắp các thôn, các xã đều rao rằng: Yên-sinh vương lâm bệnh trầm trọng, khó qua khỏi. Ba vương tử là Hưng-Ninh vương Trần Quốc-Tung, Vũ-Thành vương Trần Quốc-Doãn, Hưng-Đạo vương Trần Quốc-Tuấn đang thao diễn Thủy-quân ở Tiên-yên, được tin báo vội vã trở về để nhận di chúc. Vương phi luôn sai ngựa trạm đi thúc ba vương tử về khẩn cấp. Bây giờ là giờ Ngọ, mà tam vị vương tử vẫn chưa về tới.

Tiếp tục đọc

Anh hùng Đông A – Dựng cờ bình Mông – Hồi 45

HỒI THỨ BỐN MƯƠI LĂM

Tiết-chế binh mã Đại-Việt.

Lại nói Chiêu-Minh vương đặt câu hỏi: Thế nào là cả nước đều là thành, toàn dân đều là binh thủ thành.
Câu hỏi của Chiêu-Minh vương cũng là câu hỏi của hầu hết cử tọa. Hưng-Đạo vương nhìn Chiêu-Minh vương, trong ánh mắt chiếu ra tia hiền hòa, nhiệt tình. Vương hỏi Thái-sư Thủ-Độ:
_ Thưa Thái-sư! Có phải quan, quân Tống, Kim, Tây-hạ, Thổ-phồn, Tây-vực sống trong những thành trì kiên cố không? Còn dân chúng sống rải rác khắp nơi không?
_ Đúng vậy.
_ Còn Đại-Việt ta, không có những thành trì lớn. Thế nhưng mỗi làng là một cái thành kiên cố. Chư vị hãy tưởng tượng lại: Mỗi làng, mỗi xã đều nằm giữa một khu đồng lầy. Từ đồng lầy vào làng, trước hết phải qua một cái hào sâu gần trượng, rộng ít ra hai trượng. Dưới hào cắm chông chằng chịt. Tiếp theo là những lũy tre dầy đặc, đến con chó, con mèo chui cũng không lọt. Làng có một đến bốn cổng. Các cổng đều có những ụ lớn. Từ ngoài vào làng chỉ có những con đường nhỏ, một ngựa đi đã chật rồi. Hỏi Lôi-kỵ nào tấn công cho nổi? Vì vậy tôi mới nói cả nước đều là thành.
Tiếp tục đọc